Tập tính sinh sản kì lạ ở nhái bén (Tree frog)

Thứ sáu - 25/04/2025 04:43
Môi trường sống tự nhiên của nhái bén là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng cây bụi ẩm khu vực nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đầm nước ngọt, đầm nước ngọt có nước theo mùa, đất canh tác, ao, đất có tưới tiêu, và đất nông nghiệp có lụt theo mùa. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.
large Hyla simplex
large Hyla simplex
Nhái bén chỉ xuất hiện vào mùa mưa hàng năm, ban ngày hay mùa đông chúng thường ẩn náu trong các bụi cây nhỏ, khe đá, cây bụi, kiếm ăn ban đêm. Thức ăn chính của chúng là các loài côn trùng, bọ cánh cứng, dế con, mối... Mùa sinh sản thường kéo dài từ tháng 3 đến tháng 6 hoặc muộn hơn tuỳ từng vùng. 
Đa số loài lưỡng cư như ếch, cóc,.. có tập tính đẻ trứng và thụ tinh ngoài trong môi trường nước, sau đó trứng nở thành nòng nọc và trải qua biến thái hoàn toàn trong nước trước khi di chuyển lên cạn. Điều kì lại ở nhái bén là trứng được đẻ trong các tổ bòn bọt được ếch cái cuộn lá lại và có đường kính 6 - 8cm, đẻ sát mép nước, Giai đoạn đầu nòng nọc sẽ ăn các dưỡng chất do con m cung cấp trong tổ bòn bọt. Sau một thời gian, trứng nở thành nòng nọc. Chúng sẽ chui ra khỏi tổ rơi xuống khu vực có nước phía dưới, tiếp tục vòng đời biến thái - Ăn thực vật, di chuyển bằng đuôi, thở bằng mang và sống bầy đàn trước khi mọc chân, tiêu giảm phần đuôi và lên cây để sống.
Giai đoạn làm tổ, đẻ trứng bên trong lá cây địa lan
Giai đoạn trứng đã nở, nòng nọc chui ra và rơi xuống môi trường nước phía dưới
Nòng nọc trong bòn bọt
 
Phân loại

Tên Việt Nam: Nhái bén
Tên tiếng Anh: Annam Tree Frog
Tên khoa học: Hyla simplex
Họ: Nhái bén Hylidae
Bộ: Không đuôi Anura 
Lớp (nhóm): Lưỡng cư  

Ảnh: Phùng Mỹ Trung
Về hoạt động bảo tồn lớp lưỡng cư
Lưỡng cư là nhóm động vật có xương sống rất đa dạng, ghi nhận phân bố ở hầu hết các dạng sinh cảnh trên thế giới. Do đời sống của các loài lưỡng cư gắn liền với cả môi trường nước và cạn nên nhiều loài lưỡng cư có sinh cảnh sống rất đặc trưng và vùng phân bố hẹp, thường rất nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường. Chính vì vậy, thông tin về quần thể của các loài lưỡng cư có thể cung cấp những hiểu biết có giá trị về sức khỏe và sự cân bằng trong hệ sinh thái. Việc đánh giá một cách có hệ thống về nguy cơ tuyệt chủng của các loài là rất cần thiết để cung cấp cơ sở cho các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học. Thông qua chương trình Đánh giá các loài lưỡng cư toàn cầu (GAA) của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế (IUCN), hơn 1.000 chuyên gia đã đánh giá hiện trạng bảo tồn của 8.011 loài lưỡng cư trên toàn thế giới trong hơn 10 năm qua. Kết quả cho thấy bên cạnh nhiều loài mới được phát hiện, các loài lưỡng cư cũng đang đứng trước nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng rất cao.
Có nhiều nguyên nhân khiến các loài lưỡng cư đối diện với nguy cơ tuyệt chủng như mất sinh cảnh sống (37%) như hoạt động sản xuất nông nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng; dịch bệnh do nấm kí sinh trên da, biến đổi khí hậu cũng là vấn đề mới nổi ảnh hưởng tiêu cực đến các loài lưỡng cư (29% tổng số loài) vì chúng rất nhạy cảm với thay đổi của môi trường. Theo các mô hình dự báo, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể làm gia tăng mức độ tuyệt chủng của khoảng 39% số lượng loài được đánh giá nâng bậc đe dọa kể từ năm 2004.
                                                                                                                                                                    Nguyễn Ngọc Mai
 

Nguồn tin: vast.gov.vn


Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây