Tìm hiểu đa dạng sinh học vịnh Bái Tử Long, Quảng Ninh: nhím biển
Thứ tư - 04/06/2025 12:23
Nhím biển đen hay còn gọi là cầu gai, con nhum là động vật không xương sống, có giá trị về mặt đinh dưỡng cũng như chỉ thị sinh học trong hệ sinh thái biển.
Đặc điểm: Nhím biển tròn, đường kính cơ thể 8-10cm, một số loài, chẳng hạn như nhím biển vương miện, có thể đạt tới hơn 36 cm. Chúng có gai chính rất dài, dài tới 30cm, với nhiều gai ngắn hơn ở giữa. Các gai ở mặt dưới ngắn hơn nhiều. Con nhím biển có thể nhanh chóng chĩa những chiếc gai dài của mình vào bất kỳ mối đe dọa tiềm tàng nào (đây là một điều khá đáng sợ để quan sát). Các gai có thể toàn màu đen, có sọc đen trắng hoặc thậm chí toàn màu trắng. Hầu hết các loài đều có một loại vỏ được bao phủ bởi các gai gọi là radioles hoặc raphides. Hình dáng bên ngoài này khiến chúng có biệt danh là "nhím biển" hoặc "hạt dẻ biển". Chúng được chia thành hai nhóm chính: nhím biển "thông thường" (nhím biển hình cầu), có miệng mở hướng xuống dưới và được trang bị răng, và nhím biển "không thông thường" (nhím biển dẹt và hình trái tim), có vỏ dẹt.
Chúng có một túi phình ở giữa mặt trên. Đây là nón hậu môn nơi chất thải được thải ra. Có một vòng màu cam xung quanh nón hậu môn này, đôi khi vòng này nhạt màu. Có năm đốm trắng sáng trên cơ thể màu đen, với các chấm nhỏ màu xanh sáng tạo thành các đường hình chữ V từ các đốm trắng. Mặt dưới có thể nhạt màu, sẫm màu hoặc nâu đỏ hoặc hồng.
Nhím biển có nhiều màu sắc khác nhau, từ tím sẫm đến hồng, nâu đỏ và xanh lục. Các gai có thể có đầu màu trắng hoặc hoàn toàn màu trắng. Những loài động vật này di chuyển rất chậm trên đáy đá.
Môi trường sống
Ða số cầu gai là những loài sống ở đáy biển ấm, chỗ có đá và dưới rạn san hô, từ vùng giữa triều trở lại, chúng cũng có thể được tìm thấy giữa các thảm cỏ biển, bám vào vách đá vì chúng có thể sống sót ngoài nước trong thời gian rất hạn chế. Chúng sống thành đám cạnh nhau
Chế độ ăn
Nhím biển là loài ăn cỏ và chủ yếu ăn tảo. Nó cũng có thể bẫy các hạt thức ăn nhỏ lơ lửng bằng những chiếc gai dài của mình, chuyển những hạt này vào miệng bằng các chân ống
Sinh sản
Nhìn bề ngoài chúng ta không thể phân biệt đâu là con đực, con cái.
Cách phân biệt chúng nhờ vào quan sát giải phẫu bên trong:
Chúng có một túi phình ở giữa mặt trên. Đây là nón hậu môn nơi chất thải được thải ra. Có một vòng màu cam xung quanh nón hậu môn này, đôi khi vòng này nhạt màu. Có năm đốm trắng sáng trên cơ thể màu đen, với các chấm nhỏ màu xanh sáng tạo thành các đường hình chữ V từ các đốm trắng. Mặt dưới có thể nhạt màu, sẫm màu hoặc nâu đỏ hoặc hồng.
Nhím biển có nhiều màu sắc khác nhau, từ tím sẫm đến hồng, nâu đỏ và xanh lục. Các gai có thể có đầu màu trắng hoặc hoàn toàn màu trắng. Những loài động vật này di chuyển rất chậm trên đáy đá.
Môi trường sống
Ða số cầu gai là những loài sống ở đáy biển ấm, chỗ có đá và dưới rạn san hô, từ vùng giữa triều trở lại, chúng cũng có thể được tìm thấy giữa các thảm cỏ biển, bám vào vách đá vì chúng có thể sống sót ngoài nước trong thời gian rất hạn chế. Chúng sống thành đám cạnh nhau
Chế độ ăn
Nhím biển là loài ăn cỏ và chủ yếu ăn tảo. Nó cũng có thể bẫy các hạt thức ăn nhỏ lơ lửng bằng những chiếc gai dài của mình, chuyển những hạt này vào miệng bằng các chân ống
Sinh sản
Nhìn bề ngoài chúng ta không thể phân biệt đâu là con đực, con cái.
Cách phân biệt chúng nhờ vào quan sát giải phẫu bên trong:
![]() |
|
Con đực với tuyến sinh dục màu trắng (hình trên) | Con cái với tuyến sinh dục sẫm màu hơn (hình dưới) |
Hoặc quan sát trong môi trường tự nhiên:
![]() |
|
Con đực giải phóng tinh trùng có màu trắng | Con cái giải phóng trứng với màu sẫm hơn |
Nhím biển sinh sản bên ngoài, nghĩa là con đực giải phóng hàng triệu tinh trùng vào nước biển, trong khi con cái cũng giải phóng hàng triệu trứng. Các giao tử gặp nhau và thụ tinh để tạo ra một tế bào trứng, sau đó là phôi và sau đó là ấu trùng, sẽ biến thái thành một con nhím biển mới. Những con non này ẩn náu giữa những chiếc gai của con trưởng thành để được bảo vệ, sau đó, khi chúng khỏe hơn, chúng sẽ rời khỏi nơi ẩn náu của mình.
Tuổi thọ
Nhím biển có tuổi thọ từ 7 đến 10 năm.
Tuổi thọ
Nhím biển có tuổi thọ từ 7 đến 10 năm.

Nhím biển thu nhận ở vịnh Bái Tử Long, Quảng Ninh (5/2025)


với các chấm nhỏ màu xanh sáng
Chú ý
Một số loài nhím biển có nọc độc. Chúng thường là những loài có màu sắc rực rỡ, chẳng hạn như nhím biển lửa, nhím biển hoa hoặc nhím biển đỏ.
Trong mọi trường hợp, việc giẫm phải nhím biển là một trải nghiệm rất đau đớn! Những chiếc gai dài, mỏng, rỗng và sắc nhọn đến mức có thể đâm xuyên qua quần áo và găng tay một cách đau đớn. Những chiếc gai này thường đâm vào da và khó loại bỏ. Tuy nhiên, cơn đau thường biến mất sau vài giờ.
Vai trò của chúng trong hệ sinh thái biển
Nhím biển đang chứng minh là chỉ thị sinh học có giá trị để theo dõi tình trạng ô nhiễm môi trường biển do các nguyên tố vi lượng (từ lâu được gọi là kim loại nặng). Một ví dụ là Corsica, một địa điểm lý tưởng để nghiên cứu các hệ sinh thái ven biển, gần một mỏ đã đóng cửa hơn 50 năm.
Là ranh giới mong manh giữa môi trường trên cạn và môi trường biển, các hệ sinh thái ven biển đang chịu áp lực ngày càng tăng từ các hoạt động của con người. Sự mở rộng của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và đô thị dẫn đến việc đưa một lượng lớn hóa chất vào các hệ sinh thái này.
Những chất này thường có đặc tính độc hại có thể gây ra nhiều tác hại cho các sinh vật, quần thể và hệ sinh thái, không chỉ đe dọa đa dạng sinh học biển mà còn cả các dịch vụ hệ sinh thái mà chúng cung cấp.
Các nguyên tố vi lượng: mối đe dọa vô hình
Các nguyên tố vi lượng, trước đây được gọi là kim loại nặng, là một trong những chất gây ô nhiễm phổ biến nhất trong hệ sinh thái biển. Do độc tính, tính bền vững và khả năng tích tụ trong các sinh vật biển, chúng được coi là chất gây ô nhiễm nghiêm trọng trong môi trường biển.
Mặc dù có sẵn trong môi trường ở nồng độ thấp, các nguyên tố vi lượng có thể vẫn ở dạng dung dịch, hấp thụ vào các hạt trầm tích, kết tủa ở đáy hoặc thậm chí tích tụ và trải qua "sự phóng đại sinh học" trong chuỗi thức ăn, đạt đến mức độ độc hại. Do đó, việc theo dõi liên tục sự hiện diện và nồng độ của chúng là điều cần thiết khi đối mặt với những mối đe dọa này.
Trường hợp nhím biển tím là một chỉ thị sinh học về ô nhiễm
Để đánh giá mức độ ô nhiễm trong hệ sinh thái, các sinh vật có thể được sử dụng làm chỉ thị sinh học. Các sinh vật này có khả năng tích tụ chất ô nhiễm trong mô của chúng, do đó có thể đánh giá chất lượng môi trường của chúng.
Do phân bố rộng rãi, có nhiều trong các hệ sinh thái ven biển, dễ thu thập, tuổi thọ cao, lối sống ít vận động và khả năng chịu đựng tốt với các chất ô nhiễm, nhím biển tím Paracentrotus lividus (được Lamarck mô tả vào năm 1816) là một sinh vật được công nhận về vai trò là một chỉ thị sinh học.
Giải thích: Sự phóng đại sinh học, còn được gọi là khuếch đại sinh học hoặc phóng đại sinh học, là sự gia tăng nồng độ của một chất, chẳng hạn như hóa chất độc hại, trong các mô của sinh vật ở các cấp độ cao hơn liên tiếp trong chuỗi thức ăn. Hình dưới minh họa càng về mắt xích sau của chuỗi thức ăn, sự tích tụ các chất độc hại càng lớn.

Tham khảo:
https://www.jaitoutcompris.com/animaux/l-ornithorynque-177.php
http://blog.ac-versailles.fr/legallessvt/index.php/post/08/04/2021/QUATRIEMES-%3A-Chapitre-2-%3A-La-reproduction-des-%C3%AAtres-vivants
http://www.wildsingapore.com/wildfacts/echinodermata/echinoidea/urchin/diadema.htm
Một số loài nhím biển có nọc độc. Chúng thường là những loài có màu sắc rực rỡ, chẳng hạn như nhím biển lửa, nhím biển hoa hoặc nhím biển đỏ.
Trong mọi trường hợp, việc giẫm phải nhím biển là một trải nghiệm rất đau đớn! Những chiếc gai dài, mỏng, rỗng và sắc nhọn đến mức có thể đâm xuyên qua quần áo và găng tay một cách đau đớn. Những chiếc gai này thường đâm vào da và khó loại bỏ. Tuy nhiên, cơn đau thường biến mất sau vài giờ.
Vai trò của chúng trong hệ sinh thái biển
Nhím biển đang chứng minh là chỉ thị sinh học có giá trị để theo dõi tình trạng ô nhiễm môi trường biển do các nguyên tố vi lượng (từ lâu được gọi là kim loại nặng). Một ví dụ là Corsica, một địa điểm lý tưởng để nghiên cứu các hệ sinh thái ven biển, gần một mỏ đã đóng cửa hơn 50 năm.
Là ranh giới mong manh giữa môi trường trên cạn và môi trường biển, các hệ sinh thái ven biển đang chịu áp lực ngày càng tăng từ các hoạt động của con người. Sự mở rộng của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và đô thị dẫn đến việc đưa một lượng lớn hóa chất vào các hệ sinh thái này.
Những chất này thường có đặc tính độc hại có thể gây ra nhiều tác hại cho các sinh vật, quần thể và hệ sinh thái, không chỉ đe dọa đa dạng sinh học biển mà còn cả các dịch vụ hệ sinh thái mà chúng cung cấp.
Các nguyên tố vi lượng: mối đe dọa vô hình
Các nguyên tố vi lượng, trước đây được gọi là kim loại nặng, là một trong những chất gây ô nhiễm phổ biến nhất trong hệ sinh thái biển. Do độc tính, tính bền vững và khả năng tích tụ trong các sinh vật biển, chúng được coi là chất gây ô nhiễm nghiêm trọng trong môi trường biển.
Mặc dù có sẵn trong môi trường ở nồng độ thấp, các nguyên tố vi lượng có thể vẫn ở dạng dung dịch, hấp thụ vào các hạt trầm tích, kết tủa ở đáy hoặc thậm chí tích tụ và trải qua "sự phóng đại sinh học" trong chuỗi thức ăn, đạt đến mức độ độc hại. Do đó, việc theo dõi liên tục sự hiện diện và nồng độ của chúng là điều cần thiết khi đối mặt với những mối đe dọa này.
Trường hợp nhím biển tím là một chỉ thị sinh học về ô nhiễm
Để đánh giá mức độ ô nhiễm trong hệ sinh thái, các sinh vật có thể được sử dụng làm chỉ thị sinh học. Các sinh vật này có khả năng tích tụ chất ô nhiễm trong mô của chúng, do đó có thể đánh giá chất lượng môi trường của chúng.
Do phân bố rộng rãi, có nhiều trong các hệ sinh thái ven biển, dễ thu thập, tuổi thọ cao, lối sống ít vận động và khả năng chịu đựng tốt với các chất ô nhiễm, nhím biển tím Paracentrotus lividus (được Lamarck mô tả vào năm 1816) là một sinh vật được công nhận về vai trò là một chỉ thị sinh học.
Giải thích: Sự phóng đại sinh học, còn được gọi là khuếch đại sinh học hoặc phóng đại sinh học, là sự gia tăng nồng độ của một chất, chẳng hạn như hóa chất độc hại, trong các mô của sinh vật ở các cấp độ cao hơn liên tiếp trong chuỗi thức ăn. Hình dưới minh họa càng về mắt xích sau của chuỗi thức ăn, sự tích tụ các chất độc hại càng lớn.

Tham khảo:
https://www.jaitoutcompris.com/animaux/l-ornithorynque-177.php
http://blog.ac-versailles.fr/legallessvt/index.php/post/08/04/2021/QUATRIEMES-%3A-Chapitre-2-%3A-La-reproduction-des-%C3%AAtres-vivants
http://www.wildsingapore.com/wildfacts/echinodermata/echinoidea/urchin/diadema.htm
Tác giả: Nghĩa Nguyễn Tuấn
Bài viết xem nhiều
-
Bác Hồ với quan điểm bảo vệ môi trường thiên nhiên, phát triển kinh tế xanh bền vững
-
Bướm đêm hầu gái (Handmaiden moths )
-
Phát hiện loài cá mập quý hiếm ở Brazil
-
Tìm hiểu các loài rùa biển: 5 trên 7 loài có mặt ở Việt Nam
-
Những điều thú vị về cá tráp biển
-
Tìm hiểu ngành chân khớp (ARTHROPODA)
-
Khám phá đa dạng sinh học tại rừng quốc gia Yên Tử (P1)
-
HA LONG NATURE: Điều thú vị ở bướm đêm diều hâu chim ruồi
-
Loài ếch đặc biệt ở New Zealand
-
Đa dạng sinh học trong bài thơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa